Trà hoa cúc - đồ uống có lợi hay hại cho sức khỏe
Sức Khỏe Y Học Cổ Truyền

Trà hoa cúc – đồ uống có lợi hay hại cho sức khỏe

5 phút, 46 giây để đọc.

Trà hoa Cúc hay là loại thức uống được sắc từ bông hoa cúc màu trắng hoặc vàng. Đây là một trong những loại đồ uống có từ rất lâu và khá phổ biến trong khu vực Đông Á. Người ta thường cho hoa cúc ngâm vào nước nóng ở nhiệt độ khoảng 90-95 °. Tùy theo sở thích và khẩu vị từng người khác nhau mà chúng ta có thể gia vị thêm chút đường phèn, mật ong hay thỉnh thoảng là Kỷ tử. Nước trà làm từ hoa cúc thường rất trong suốt và có màu vàng nhạt hay vàng tươi. Theo người dân Trung Quốc, mỗi khi uống xong một ấm trà thì người ta lại rót thêm nước nóng vào mục đích để trà lần sau nhạt hơn trà lần trước; lặp lại vài lần như vậy mới đổ đi. Hãy cùng thitruongthegioi tìm hiểu về lĩnh vực này nhé.

Nguồn gốc xuất xứ và đặc điểm của trà hoa cúc

Nguồn gốc trà hoa cúc

Hoa cúc mọc dại và xuất hiện từ rất lâu, có nguồn gốc từ Đông Á và Đông Bắc châu Âu. Trong đó các loài hoa cúc nhiều nhất đều có nguồn gốc từ Đông Á và giống hoa đa dạng nhất là ở Trung Quốc. Ngoài ra, còn rất nhiều giả thuyết về nguồn gốc và thời điểm xuất hiện của hoa cúc như theo:

Nguồn gốc và đặc điểm của hoa cúc

Giả thuyết 1

Hoa cúc có nguồn gốc từ Trung Quốc và Nhật Bản; được thuần hóa cách đây hơn 5000 năm từ những bông hoa cúc mọc dại. Ở Nhật Bản, hoa cúc được xem là loại hoa quý (còn gọi là quốc hoa); thường được sử dụng trong các buổi lễ quan trọng và thậm chí còn có ngày hoa cúc riêng tại Nhật; với tên gọi là Kiku no Sekku (tổ chức vào ngày 9/9). Hoa cúc bắt đầu được trồng vào đầu thế kỉ 8 đến cuối thể kỉ 12 (vào thời Nara và Heian); phổ biến nhất vào đầu thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19 (thời Edo) với nhiều giống hoa có hình dạng, màu sắc và hương thơm riêng.

Giả thuyết 2

Theo tài liệu cổ Trung Quốc có ghi chép thì hoa cúc xuất hiện cách đây 3.000 năm. Hầu hết trong văn thơ Hán cổ; người ta gọi hoa cúc bằng nhiều cái tên khác nhau (thậm chí có từ 30 – 40 tên gọi) như: Diên hoa, Nữ hoa, Cam hoa,… Hoa cúc được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 15 và nằm trong bốn loài thảo mộc xếp vào hàng tứ quý “Mai, Cúc, Trúc, Tùng”.

Đặc điểm trà hoa cúc

Hoa cúc, có tên khoa học là Chrysanthemums, cùng họ Cúc (hay gọi là họ Hướng dương; họ Cúc Tây với tên họ khoa học là Asteraceae). Hoa cúc thuộc dạng cụm hoa đầu trạng, nghĩa là trục chính của cụm hoa phát triển rộng ra thành hình đĩa phẳng (hoặc hơi lồi); các cánh hoa xếp khít nhau cùng với phía ngoài là các lá bắc xếp thành vòng. Hoa có nhiều màu sắc và đường kính khác nhau; trung bình từ 1,5 – 12 cm; chúng có thể lưỡng tính hoặc đơn tính. Quả là loại quả bế, được tạo ra từ một lá noãn và không nứt nẻ ra khi chín.

Hoa cúc thường nở vào mùa thu và rộ nhất là tháng 11. Trà hoa cúc có một số biến thể làm từ các loại cúc trồng ở những vùng khác nhau. Trung Quốc có “Tứ đại danh cúc” (四大名菊); là Cống cúc, Hàng cúc, Trừ cúc và Bạc cúc

Cống cúc

Tên đầy đủ là Hoàng Sơn cống cúc (黄山贡菊, tạm dịch là “cúc từ Hoàng Sơn”). Từ xa xưa, hoa Cúc ở vùng núi Hoằng Sơn này đã được tiến cung làm trà hoa cũng như thảo dược cho Cung đình Hoàng thất, nên nó mới có tên gọi như vậy. Vùng đất Hoằng Sơn sông xanh núi biếc, khí hậu quanh năm trong lành, bốn mùa rõ rệt, không nóng quá, cũng không lạnh quá, nhiệt độ trung bình hàng năm vào khoảng 16.4 độ C, độ ẩm tiêu chuẩn và thổ nhưỡng phì nhiêu, giúp những bông Cúc trắng ở đây luôn an lành sinh trưởng, mang đến một vẻ đẹp thiên nhiên cỏ hoa đầy hương sắc, và một nguồn thảo dược dồi dào chứa đầy giá trị.

Cống cúc được dược điển Trung Quốc coi là loại thảo dược quý của quốc gia. Ngày nay nó được sử dụng phổ biến trong dân chúng, dùng làm trà, làm thuốc trị bệnh đều rất hiệu nghiệm.

Cống cúc

Hàng cúc

Tên đầy đủ là Hàng bạch cúc (杭白菊, tạm dịch là “cúc trắng Hàng Châu”). Hàng bạch cúc có hoa màu trắng thuần khiết như ngọc, giữa màu kim nhạt rất đẹp. Người dân bản xứ thường thu hái Hàng cúc vào hạ tuần tháng 10 -11 hàng năm; sau đó đem chưng cất, rồi hong khô tự nhiên. Hàng cúc được sách (Thần Nông Bản Thảo Kinh) xếp vào hàng thuốc “thượng phẩm”, có lợi cho khí huyết; được sách (Bản Thảo Cương Mục Thập Di) mô tả là có vị hơi lạnh, hơi ngọt, có tác dụng thông phế khí; chỉ khái nghịch, thanh can hoả, bình can phong, ích đầu mục,…

Trừ cúc

“Trừ” chỉ Trừ Châu, tỉnh An Huy. Theo ghi chép nó được trồng ở vùng này từ cách đây hơn 2000 năm. Từ thời nhà Đường, dân gian đã có tập tục pha trà cúc hoặc ngâm rượu cúc; để mời bằng hữu gia nhân. Cúc ở vùng này có hoa đoá dày và chắc nhất, hương thơm thanh dịu; công dụng thiên về thanh can hoả, bình can phong. Sách (Bản Thảo Thập Di) viết: Trừ cúc “làm gối minh mục”. Cho nên những người cao huyết áp, hoa mắt chóng mặt đều có thể uống trà này; hay gia thêm Quyết minh tử, Vỏ đậu đen, Vỏ kiều mạch,…; làm gối ngủ để an tinh thần, thanh đầu mục rất tốt.

Bạc cúc

“Bạc” chỉ Bạc Châu, tỉnh An Huy. Bạc cúc có hoa đoá nhẹ tơi, dễ bung nở, công dụng thiên về sơ phong thanh nhiệt; giải thử minh mục. Thường dùng cho cảm mạo phong nhiệt, trúng thử. Mùa hè có thể nấu trà Bạc cúc với chút gạo tẻ uống để phòng trúng thử nhiệt rất hay.

Theo Trung y, hoa Cúc có vị đắng, ngọt, tính hơi hàn; quy kinh phế, tỳ, can, thận; có tác dụng thanh sơ phong nhiệt, bình can, thanh can minh mục, thanh nhiệt giải độc. Uống trà hoa Cúc giúp lợi khí huyết, điều ngũ tạng, nhuận bì phu, ích nhan sắc; thanh đầu mục, nhẹ thân thể mà diên niên bất lão!

Nguồn: yduoctuetinh

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *